Vị trí Hà_Âm

Vị trí địa danh huyện Hà Ân tỉnh An Giang thời nhà Nguyễn độc lập trên vùng đất phụ cận tỉnh An Giang ngày nay.An Giang trong bản đồ Nam Kỳ Lục tỉnh (Basse Cochinchine). Đường biên giới giữa Vương quốc Campuchia của người Khmer với Nam Kỳ Lục Tỉnh (Frontiére du Royaume de Cambodge de Khmere de la Basse CochinChine), chạy song song cách xa kênh Vĩnh Tế (Canel de Vinh Te ou de Hatien) với một vùng đất (là huyện Hà Âm và một phần huyện Tây Xuyên An Giang, một phần huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên) nằm kẹp ở giữa, và bao vùng lồi Svay Rieng (nguyên thuộc phủ Tây Ninh tỉnh Gia Định) trong phần lãnh thổ Nam Kỳ Lục Tỉnh.An Nam Đại Quốc Họa Đồ của Taberd, in năm 1838, cho thấy cả ba địa danh: Châu Đốc, Giang Thành, và Vĩnh Tế giang đều nằm sâu trong nội địa Nam Kỳ thay vì nằm ở biên giới Việt-Miên như ngày nay, giữa biên giới Việt-Miên thời đó và tuyến kênh Vĩnh Tế-Giang Thành còn có một vùng đất đệm có chứa huyện Hà Âm ở đó (phía Bắc kênh Vĩnh Tế).Cochinchine (Nam Kỳ Lục tỉnh), vẽ năm 1872, tuyến đường thuỷ: Hatien (thành Hà Tiên)-Gienthan (Giang Thành)-Canal de Vinhte (kênh Vĩnh Tế)-Chaudoc (thành Châu Đốc), đều nằm sâu trong nội địa Nam Kỳ thay vì nằm ở biên giới Việt-Miên như ngày nay, giữa biên giới Việt-Miên thời đó và tuyến kênh Vĩnh Tế-Giang Thành còn có một vùng đất đệm có chứa huyện Hà Âm ở đó (phía Bắc kênh Vĩnh Tế).

Huyện Hà Âm phủ Tuy Biên, trước là đất huyện Châu Thành nước Cao Miên, gồm 2 tổng với 40 làng xã, phía Tây giáp huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên, phía Nam giáp huyện Hà Dương, phía Đông giáp huyện Tây Xuyên, phía Bắc giáp nước Cao Miên. Theo Đại Nam nhất thống chí: huyện Hà Âm nằm bên trái (tả, tức bờ phía tây bắc) sông Vĩnh Tế[1]. Như vậy, vào thời này, vùng đất huyện Hà Âm thuộc phần đất giáp biên giới của Campuchia với Việt Nam, tức là phần đất huyện Kiri Vong, và có thể cả phần đất các huyện Kaoh Andaet, Bourei Cholsar thuộc tỉnh Takeo Campuchia.

Đại Nam nhất thống chí chép rằng: "Huyện Hà Dương ở Tây Nam phủ 40 dặm. Đông đến Tây cách nhau 68 dặm, Nam đến Bắc cách nhau 73 dặm. Phía đông đến huyện giới Tây Xuyên 44 dặm; phía tây đến huyện giới Hà Châu tỉnh Hà Tiên 24 dặm; phía Nam đến huyện giới Kiên Giang tỉnh Hà Tiên 38 dặm; phía bắc đến huyện giới Hà Âm 35 dặm... Huyện Hà Âm ở Tây Bắc phủ 80 dặm. Đông đến Tây cách nhau 73 dặm, Nam đến Bắc cách nhau 42 dặm. Phía đông đến huyện giới Tây Xuyên 38 dặm; phía tây đến huyện giới Hà Dương [Hà Châu][2] 25 dặm; phía bắc đến cảnh giới nước Cao Miên 17 dặm. Nguyên trước là đất của 2 huyện Tây Xuyên và Chân Thành. Năm Minh Mạng thứ 20 (1839) chia đặt huyện này, lấy phía tế [phía tả][3] sông Vĩnh Tế làm huyện Hà Âm, thuộc phủ hạt Tĩnh Biên..."[1]

Đại Nam thực lục có nhiều đoạn chép về địa danh Hà Âm cũng như các địa danh đương thời nằm trong địa bàn huyện Hà Âm có thể cho thấy được dấu vết vị trí của Hà Âm:

  • "Tháng 12 âm lịch năm Kỷ Hợi niên hiệu Minh Mạng thứ 20 [1839]:... Đổi đặt các phủ huyện ở An Giang, Hà Tiên... Huyện Chân Thành (nguyên thổ huyện), địa thế rộng xa, lấy 4 tổng về tả ngạn sông Vĩnh Tế (đinh số 1040 người, điền thổ hơn 1150 mẫu [khoảng 5,63 km2]) đặt làm huyện Hà Âm; 4 tổng về hữu ngạn sông ấy (đinh số 1480 người, điền thổ hơn 2080 mẫu [khoảng 10,18 km2]) đặt làm huyện Hà Dương. Đặt thêm phủ Tĩnh Biên để thống trị. Phủ nha kiêm lý huyện Hà Âm, thống hạt huyện Hà Dương và đổi thuộc về quản hạt Hà Tiên."[4]
  • "... đánh giặc ở huyện Hà Âm. Trước đây bọn giặc rủ nhau tụ họp ở xứ Liệt Điệt (thuộc tỉnh Hà Tiên), Tổng đốc Long-Tường là Dương Văn Phong sai Cẩm y Phó vệ uý Hoàng Văn Quý chia đường tiến đánh lấy luôn được 4 đồn, thừa thắng chuyển sang đánh ở Cần Sư. Phong lại tiến đánh các miền núi ở huyện Hà Dương, vừa gặp thự tuần phủ Hà Tiên Lê Quang Huyên đem quân từ Giang Thành đến, chia nhau đi dẹp giặc ở Hà Âm... chém bắt được rất nhiều quân giặc. Phong ở lại để dẹp trong hạt Tĩnh Biên, còn Huyên trở về Giang Thành. Rồi sau, bọn giặc lại ngầm về Hà Âm, đặt trại đóng quân ở thành Cổ Man[5]. Phong bèn đem thự lãnh binh Nguyễn Duy Tráng,... đẵn phá nơi đường tắt hiểm trở, đầu tiên đánh phá được sào huyệt của bọn giặc ở hai núi Châu Chiêm và Thâm Đăng (đều thuộc huyện Hà Âm)..."[6]
  • "Tháng 4 âm lịch, năm Tân Sửu niên hiệu Thiệu Trị thứ nhất [1841]:... Nguyễn Tri Phương, Đinh Văn Huy và Lương Văn Liễu đi tiễu phỉ ở núi Tượng Sơn (thuộc huyện Hà Dương)."[7] (Tượng Sơn là một trong 7 ngọn núi gọi là Thất Sơn. Vùng Thất Sơn (Bảy Núi) là thuộc huyện Hà Dương).
  • "Tháng 11 âm lịch, năm Tân Sửu niên hiệu Thiệu Trị thứ nhất (1841):... Lĩnh Tuần phủ tỉnh An Giang Nguyễn Công Trứ cùng thự đề đốc Vĩnh Long Đoàn Văn Sách tâu về [triều đình Huế] rằng: "Vĩnh Tế là đường vận tải và thông báo [tin] của tỉnh An Giang, phía bắc sông này liên tiếp với Thất Sơn, phía nam sông này liên tiếp với các núi Sâm Đăng, Chân Sâm, Bà Đê, Cần Thế, Lệ Chân, phàm những đường có thể qua lại, bọn thổ phỉ đều dựa vào chỗ hiểm, đặt đường làm chước cố giữ... Nếu đến cuối mùa đông, khô ráo, một mớ lửa đốt cháy sạch mặt đất, chúng tất lại đến quấy nhiễu. Thất Sơn chưa dẹp yên, vẫn còn ngăn trở phía sau sông Vĩnh Tế, nên một phen hết sức tiễu trừ để tuyệt hết mối lo về sau. Nay từ bờ sông vào phía trong, còn có nước đọng, nếu số quân tiến tiễu nhiều thì chia thành 5 đạo, do đường qua Vĩnh Tế [thuộc Tây Xuyên], Tĩnh Biên [phủ thành Tĩnh Biên cũ nằm trên đất Hà Dương], Tiên Nông [thuộc Hà Châu tỉnh Hà Tiên], Vĩnh Thông [thuộc Hà Âm], Vĩnh Gia [thuộc Hà Âm] cùng tiến lên..." Vua dụ rằng: "Thất Sơn ở sau lưng Vĩnh Tế, tuy gọi là hiểm trở, nhưng chỗ đó bọn giặc tụ tập chẳng qua chỉ là bọn linh tinh còn sót,... Nay truyền cho Nguyễn Công Trứ và Đoàn Văn Sách hãy xét trong hạt mình, phòng bị cho nghiêm, nên để lính lưu lại An Giang nghỉ ngơi cho được rỗi sức"[8]". Tuy nhiên trong lời tấu Nguyễn Công Trứ và Đoàn Văn Sách có sự nhầm lẫn Thất Sơn (bảy núi) ở bờ Bắc sông Vĩnh Tế (cũng như các núi đối diện Thất Sơn (Sâm Đăng (Thâm Đăng), Chân Sâm (Chân Chiêm), Bà Đê, Cần Thế, Lệ Chân) lại ở bờ Nam) trong khi trên thực địa thì ngược lại: Thất Sơn (thuộc huyện Hà Dương) ở bờ Nam sông Vĩnh Tế (tức kênh Vĩnh Tế).

Núi non thuộc Hà Âm

Hà Âm(河陰)và núi non tỉnh An Giang nhà Nguyễn trong bản đồ cổ thế kỷ 19.Bản đồ Nam Kỳ với các địa danh giữa thế kỷ 19.
  • núi Chân Sâm (真森山, Treang): theo Đại Nam nhất thống chí thì "Núi Chân Sum [Sâm] ở cách huyện Hà Dương [Âm][9] 10 dặm về phía Nam, cách bờ sông Vĩnh Tế 10 dặm về phía Tây Bắc, hình như hoa sen cắm xuống đất, thường có mây trắng bao phủ..."[10] Theo Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức thì: "Núi Chân Giùm (真森山) ở địa phận phủ Chơn Giùm (真森府) Cao Miên, cách bờ phía tây bắc trung lưu sông Vĩnh Tế 10 dặm..."[11] (Chữ 森 đọc theo Hán là sum hay sâm nhưng nếu đọc theo chữ Nôm là giùm hay giụm.)
  • núi Thâm Đăng hay Thâm Đưng (深簦山, Phnom Ba-yang): theo Đại Nam nhất thống chí thì "Núi Thâm Đăng ở phía Đông núi Chân Sum, cách huyện Hà Dương [Âm] 9 dặm về phía Đông Nam, cách cửa Vàm Nao chừng 1 dặm về phía Tây, đất đá lẫn lộn, tre pheo rậm rạp."[10]
  • núi Đại Bà Đê (大碆底山, Phnum Den): theo Đại Nam nhất thống chí thì "Núi Đại Bà Đê ở phía Đông Nam núi Chân Sum, cách huyện Hà Dương [Âm] 20 dặm về phía Nam, cách bờ sông Vĩnh Tế chừng 1 dặm về phía Tây Bắc, hang hốc sâu thẳm, cây cối tốt tươi."[10]
  • núi Tiểu Bà Đê: theo Đại Nam nhất thống chí thì "Núi Tiểu Bà Đê ở phía Tây núi Đại Bà Đê, cách huyện Hà Dương [Âm] 18 dặm về phía Tây Nam, cách bờ sông Vĩnh Tế chừng nửa dặm về phía Tây, núi nhỏ mà cao, hình thế quanh co."[10]

Trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời, xem xét về các địa danh trấn Hà Tiên, Đào Duy Anh viết: "... Chúng ta đã biết Vũng Thơm, Cần Bọt, Sài Mạt là dải đất từ lỵ sở Hà Tiên đến Sài Mít. Tức dải đất bờ biển phía tây nam nước Cao Miên. Còn Chân Sum thì Nhất thống chí (An Giang) chép là núi ở phía nam huyện Hà Âm cách 10 dặm, cách bờ sông Vĩnh Tế ở phía Nam 10 dặm. Huyện Hà Âm là huyện ở phía bắc sông Vĩnh Tế (phía âm của sông) nên gọi tên là thế, đối với huyện Hà Dương là huyện ở phía nam (phía dương của sông). Có thể đất Chân Sum là đất Sóc Sum của tỉnh KamPot. Về Linh Quỳnh thì Nhất thống chí chép rằng núi Linh Quỳnh thuộc huyện Hà Châu cách 120 dặm và ở phía bắc sông Giang Thành, sông này có hai nguồn ra từ núi Linh Quỳnh. Linh Quỳnh tức địa điểm Linh Quỳnh của tỉnh KamPot nước Cao Miên. (Xem thế thì thấy rằng năm phủ Vũng Thơm, Cần Bọt, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh ở đời Nguyễn còn là đất của huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên và của huyện Hà Âm tỉnh An Giang, đến đời Tự Đức triều Nguyễn mới trả về nước Cao Miên)."[12]

Đồn bảo (cửa khẩu và đồn binh) thuộc Hà Âm

Vị trí các làng Vĩnh Điều, Vĩnh Lạc của huyện Hà Âm, nằm trên bờ bắc kênh Vĩnh Tế.Bản đồ vùng Hà Âm (kênh Vĩnh Tế, núi Chân Sum (núi Sung), núi Thâm Đăng (núi Than Dong)-Kiri Vong (biên giới Việt Nam-Campuchia) năm 1901. Vị trí các làng Vĩnh Điều (Vinh Diu), Vĩnh Điền (Vinh Dien), Vĩnh Lạc (Vinh Lac), Vĩnh Thông (Vinh Thong), Vĩnh Bảo (Vinh Bao) nằm bên bờ bắc kênh Vĩnh Tế. Thượng nguồn đông bắc sông Giang Thành là Linh Quỳnh.Bản đồ vùng Hà Âm, Hà Dương (kênh Vĩnh Tế)-Kiri Vong (biên giới Việt Nam-Campuchia) năm 1906. Vị trí các làng Vĩnh Điều (Vinh Diu), Vĩnh Điện (Vinh Dien), Vĩnh Thông (Vinh Tong) nằm bên bờ kênh Vĩnh Tế.

Các đồn bảo của nhà Nguyễn là các trạm sở cửa khẩu thu thuế giao thương, đắp bằng đất, trong thời chiến trở thành các đồn binh. Theo Đại Nam nhất thống chí trên địa bàn huyện Hà Âm có các đồn bảo sau[13]:

  • Bảo Vĩnh Thông, nằm trên đất làng Vĩnh Thông trên bờ sông Vĩnh Tế (Vị trí làng này ngày nay thuộc xã An Nông huyện Tịnh Biên tại phía bắc kênh Vĩnh Tế trên biên giới với xã Saom (tức Sóc Sum) huyện Kiri Vong tỉnh Takéo Campuchia). Theo thống kê địa bạ năm 1836, làng này có tổng lượng ruộng đất là 6,7 mẫu (tức khoảng 3,28 ha). Tuy nhiên, vị trí làng này ngày nay không còn dấu vết. Mà tại phía bắc thị trấn Ba Chúc huyện Tri Tôn, (ở khoảng lân cận xã Lạc Quới và thị trấn Ba Chúc ngày nay) có một cây cầu cũng được gọi là cầu sắt Vĩnh Thông được người Pháp xây dựng năm 1920.
  • Bảo Vĩnh Lạc (trên đất làng Vĩnh Lạc, thuộc khoảng bờ bắc kênh Vĩnh Tế[14], nay thuộc xã Lạc Quới huyện Tri Tôn).
  • Bảo Thân Nhân
  • Bảo Vĩnh Gia, (trên đất làng Vĩnh Gia, có thể nay thuộc khoảng bờ bắc kênh Vĩnh Tế ở vị trí xã Vĩnh Gia huyện Tri Tôn tỉnh An Giang)
  • Bảo Vĩnh Điều (trên đất làng Vĩnh Điều, thuộc khoảng bờ bắc sông Vĩnh Tế[14], nay ở khoảng vị trí xã Vĩnh Điều huyện Giang Thành tỉnh Kiên Giang).

Các thôn làng thuộc Hà Âm: Vĩnh Thông, Vĩnh Bảo, Vĩnh Lạc, Vĩnh Gia, Vĩnh Điều, Vĩnh Điền[15], Thân Nhơn (Thân Nhân), An Quới, Long Thạnh, Linh Quỳnh (Luih-Quinh tức làng Prey-Angkonh[16]), Cổ Man (sóc Kaoh Moan),...